Hôm 02/06/2025, chư Tôn đức Tăng Ni giáo phẩm GHPGVN Đà Nẵng, những đại diện lãnh đạo địa phương, đông đảo quý Phật tử và người dân hành lễ cung tiễn xá lợi Phật trong không khí trang nghiêm và tôn kính . Hàng ngàn Phật tử mặc đồng phục, pháp phục đứng hai bên đường bùi ngùi xúc động cung tiễn xá lợi Phật đến tận sây bay quốc tế Đà Nẵng ‘trở về’ quê hương Ấn Độ, nơi Đức Phật thị hiện đản sanh, giác ngộ, niết bàn, để lại cho đời vô số xá lợi và 84000 pháp môn, chỉ đường dẫn lối cho chúng sanh những cách sống an lạc, hạnh phúc, sống từ bi hỷ xả, được chơn lạc, nhơn thiên, niết bàn.
Một số Phật tử tranh thủ duyên lành này, với năm vóc sát đất, mặt hướng về xe hoa chở xá lợi Phật kỉnh lễ Ngài. Mặc dầu ái luyến sinh khổ đau, là nguồn gốc của luân hồi, nhưng trong khi đối với phần nhiều Phật tử, chưa thể xả ly, đoạn diệt tham sân si, thời ái luyến với Đức Phật là rất lành, vì ngài là bậc chánh đẳng giác, bậc toàn thiện, thầy của trời người, bậc lân mẫn từ bi đến mọi loài chúng sinh, bậc trí tuệ tuyệt hảo, mang lại ánh sáng, phá mê khai ngộ, chỉ dạy cho chúng sanh con đường thoát khổ đau. Có thể thấy được sự lợi lạc, hạnh phúc lâu dài này ở trong Thánh Điển Pali như: Một con chó vì ái luyến với một vị Bích Chi Phật trong khi tiễn biệc Ngài đến nỗi mất mạng, nhờ vậy được tái sanh thành một vị thiên nam ở cõi Trời Ba Mươi Ba (Đao Lợi Thiên) (Tích Truyện Kinh Pháp Cú). Con Voi chúa trong Tiểu Bộ Kinh luyến ái với Đức Phật Thích Ca trong khi tiễn biệt Ngài đến nỗi vỡ tim ra chết, và được tái sinh lên Đao Lợi Thiên. Con ngựa Kiền Trắc chia tay Bồ Tát khi Ngài cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục xuất gia, vì lòng ái luyến trung thành quá lớn đến nỗi mất mạng, cũng được tái sanh về cõi Trời Ba Mươi Ba, hưởng sự vui sướng, hạnh phúc lâu dài trong cảnh giới thù thắng đó…
Bài chia sẻ hôm nay, trên tinh thần theo lời Phật dạy, được kết tập trong hai nguồn kinh điển chính thống Pali tạng và Hán tạng nhằm làm sáng tỏ Chánh Tín Phật Trí – Nhân lành qua việc thành kính cung rước, cung tiễn, chiêm bái xá lợi Phật vv của hàng triệu bà con- Quả: được lợi lạc, hạnh phúc lâu dài, và sau khi xả bỏ thân mạng, sẽ được sinh thiên, và đối với hành giả Tịnh Độ với tâm nguyện vãng sanh về Cõi Phật A Di Đà, sẽ được tái sanh về miền Cực Lạc.
1. Lợi lạc, hạnh phúc lâu dài
Đức Thế Tôn để lại xá lợi vì lợi ích, hạnh phúc lâu dài cho số đông, cho những ai hân hoan chiêm bái, kính lễ xá lợi ngài, như đảnh lễ chính Đức Phật, và nhờ vậy được lợi ích và hạnh phúc lâu dài, như lời dạy của Ngài cho Ngài Ananda, cho bốn chúng đệ tử, cho chư thiên và loài người trước khi nhập vô dư niết bạn, như đã được ghi lại trong Thánh Điển Pali như sau:
Này Ananda, pháp táng thân vị Chuyển luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân Thế Tôn cũng như vậy. Tháp của Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đem tại chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp, hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp), thời những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
(Trường Bộ Kinh Digha Nikàya. 16 Đại Bát Niết Bàn Kinh. Tụng Phẩm V. Đoạn 11.)
Thật vậy, lợi ích có thể thấy được tức thời qua việc hàng triệu Phật tử và người dân trong những ngày qua, thành kính tham gia cung thỉnh, chiêm bái, cung tiễn, tôn trí lễ đài và tháp thờ xá lợi Thế Tôn vv trong niềm hân hoan hạnh phúc vô cùng. Có những người không quản ngại đường sá xa xôi, hoặc bệnh tật, hoặc tuổi già sức yếu vv, vẫn không thấy mệt mỏi, mà trái lại, rất hoan hỷ xếp hàng đợi chờ trong vài giờ liền, thậm chí dưới trời mưa, hoặc nắng nóng vào mùa hè của miền trung và bắc chỉ để được một lần chiêm bái xá lợi Phật trong niềm vui hỷ lạc.
Khoảnh khắc thiêng liêng khi mọi người thành kính chắp tay kính lễ tháp thờ xá lợi Phật, đi nhiễu một vòng quanh trong niềm vui khó tả, là biểu pháp của sự an lạc và hạnh phúc của đông đảo bà con tham gia vào sự kiện kỳ đặc này.
Đây là một kỷ niệm khả hỷ khó quên mà những người tham gia, một khi hay nhiều khi nhớ lại, thời niềm vui chơn chánh hỷ lạc lại sẽ được khởi dậy, pháp hỷ tràn đầy trong tâm, mang lại hạnh phúc dài lâu, như được ghi lại trong Kinh Điềm Lành, Tiểu Tụng, Tiểu Bộ Kinh
Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chân chánh hướng tự tâm
Là điềm lành tối thượng.
Hạnh phúc lâu dài mà Đức Phật muốn nói ở đây có lẽ là sự thọ hưởng an vui trong cảnh giới tối thắng của chư thiên sau khi chết, như sẽ được minh thị trong mục 2.
2. Sau khi xả bỏ thân mạng, sẽ được sanh thiên
Đức Phật dạy A Nan rằng: “Trà-tỳ xong lượm lấy xá-lợi, dựng tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông thấy tháp của Phật mà tưởng nhớ lại đạo hóa của Pháp vương Như Lai, sống thì được phước lợi, chết thì sanh thiên” (Kinh Du hành, Trường A-hàm).
Thành kính cung thỉnh, chiêm bái, cung tiễn xá lợi Phật vv thể hiển lòng tôn kính Như Lai trong niềm hân hoan hạnh phúc. Chỉ với hạnh chơn thiện lành nhờ từ sự kính tín Đức Phật phát sinh công đức vô lượng, sẽ được sinh thiên sau khi chết, như đã được ghi lại trong Thánh Điển Pali
2.1 Sự thật này được minh chứng trong tích truyện kinh Pháp Cú 2, Phẩm Song Yếu kể rằng: con trai duy nhất của một phú gia Bà-la-môn keo kiệt, bị bệnh (do người cha tánh bỏn xẻn, không chịu chạy chữa) và bị chết, được tái sinh lên Cõi Trời Đao Lợi (Trời Ba Mười Ba) do nhờ kính tin Như Lai, như đoạn trích sau đây:
Người Bà-la-môn chưa tin hẳn (việc con ông sinh thiên chỉ do kính tin Như Lai, chứ không do công đức nào khác nữa), hỏi lại Thế Tôn:
- Có ai do tin Phật mà được sanh thiên không?
Thế Tôn đáp:
- Chẳng phải có hằng trăm, hằng ngàn hay hằng trăm ngàn mà vô số người do đặt niềm tin nơi ta đều được sinh thiên.
…
Thấy đám đông chưa hết nghi ngờ, đấng Ðạo sư ra lệnh:
- Phạm thiên Matthakundali, hãy đến đây với lâu đài của ngươi!
Tức thì Matthakundali hiện ra, thân cao gần một dặm với nhiều đồ trang sức cõi trời. Từ lâu đài bước xuống, Phạm thiên đảnh lễ đức Ðạo sư rồi cung kính đứng một bên.
Ðức Phật hỏi:
- Ngươi đã tạo lập công đức gì mà được phước báo thế này?
Phạm thiên với dung nhan thù thắng.
Chiếu sáng bốn phương như sao trời,
Hỡi vị trời oai lực phi thường,
Sinh thời làm công đức gì thế?
Phật nói kệ xong, Phạm thiên đáp:
- Bạch Thế Tôn, con được phước báo thù thắng này do kính tin Ngài.
- Ngươi được phước báo sanh thiên nhờ kính tin Ta?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Ðám đông chiêm ngưỡng vị trờ và đồng vui mừng thốt lên:
- Oai lực của chư Phật thật là kỳ diệu! Con trai Ba-la-môn Adinnapubbaka được phước báo như thế này chỉ do kính tin Phật, chẳng phải do công đức nào khác!
Ðức Ðạo sư bèn thuyết giảng:
- Tâm ý là gốc của hành động, cả tốt lẫn xấu. Chính tâm ý điều khiển hành động. Bởi vì việc làm do lòng tin theo người đi trong nhơn thiên như bóng theo hình.
Ðấng Pháp Vương, như một vị vua đóng dấu ấn bằng con triện hoàng gia lên sắc dụ đã được niêm phong, tiếp tục đọc Pháp Cú số 2:
Ý dẫn đầu các Pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình.
(Tích Truyện Kinh Pháp Cú. I Phẩm Song Yếu. 2. Khóc đòi những chuyện trên trời)
2.2 Một bà lão Chiên-đa-la, sắp đọa địa ngục do ác nghiệp của bà, mà lại được sinh thiên ngay khi bị một con bò húc chết, là nhờ đảnh lễ Đức Phật. Kinh văn cho thấy bà lão khi đối diện với Thế Tôn, không chịu đảnh lễ, mà do Tôn giả Đại Mục Kiên Liên (Maha-Moggallàna) thúc giục bà đảnh lễ Đức Phật bằng cả tấm lòng kính ngưỡng, như đoạn kinh văn được trích từ Phẩm II. Chuyện thứ tư Lâu Đài của Chiên-đà-la, Thiên Cung Sự, Tiểu Bộ Kinh như sau:
Trong lúc đức Thế Tôn đang trú ngụ tại Ràjagaha (Vương xá), Ngài nhập định Đại bi mà chư Phật thường trú, sau đó xuất định và quán sát thế gian. Ngài thấy ngay trong thành phố ấy tại khu vực của dân chúng Candàla (Chiên-đà-la, hạng người vô loại khốn cùng không ai tiếp xúc) có một bà lão sắp mạng chung và một ác nghiệp đưa đến địa ngục đã xuất hiện cho bà.
Với tâm Đại bi, MUỐN làm cho bà tạo một nghiệp lành đưa đến cõi trời, Ngài suy nghĩ: 'Ta sẽ an trú kẻ ấy vào thiên giới', Ngài liền cùng đại chúng Tỷ-kheo vào Ràjagaha khất thực.
Vào lúc ấy, bà lão Chiên-đà-la chống gậy ra khỏi thành, thấy đức Thế Tôn đến gần, và khi bà đối diện Ngài, bà dừng lại. Đức Thế Tôn cũng dừng lại và đứng ngay trước mặt bà như thể cản bà tiến lên.
Sau đó, Tôn giả Mahà-Moggallàna, biết tâm bậc Đạo Sư và cũng biết thọ mạng bà lão sắp hết, bèn thúc giục bà đảnh lễ đức Thế Tôn:
1. Lễ chân đức Phật Go-ta-ma,
Vì xót thương cho số phận bà,
Giác giả tối cao, danh tiếng rộng,
Đứng ngay trước mặt, hỡi Chiên-đà.
2. Hãy hướng tâm đầy đủ thiện duyên
Về Ngài La-hán, bậc an nhiên,
Mau mau đảnh lễ, hai tay chắp,
Vì mạng sống kia chẳng được bền!
Khi bà lắng nghe lời Tôn giả, lòng đầy xúc động, bà phát khởi tâm tín hướng về bậc Đạo Sư, liền đảnh lễ Ngài với năm phần thân thể sát đất, và do hân hoan trước đức Phật, bà nhất tâm đứng yên lặng, đầu cúi xuống. Đức Thế Tôn bảo:
- Thế này là đủ để bà ấy lên thiên giới.
Xong Ngài vào thành với đại chúng Tỷ-kheo. Ngay lập tức sau đó, một con bò cái chạy trốn cùng với bê con, lao về phía bà già, lấy cặp sừng húc bà chết tại chỗ.
Để giải thích tất cả sự kiện này, chư vị Trưởng lão kết tập Kinh điển ngâm hai vần kệ;
3. Được lời khuyên của bậc chân nhân
Là bậc mang thân xác cuối cùng,
Bà lão Chiên-đà liền đảnh lễ
Cồ-đàm Giác Giả, đại danh lừng.
4. Bò cái đá người khốn khổ trên,
Lúc bà đang đứng chắp tay lên
Khấu đầu đảnh lễ ngài Viên Giác,
Người chiếu hào quang giữa bóng đêm.
Sau đó, bà được tái sanh giữa cõi trời Ba mươi ba. Bà có một đoàn tùy tùng hộ tống gồm cả một trăm ngàn tiên nữ.
Ngay đúng ngày hôm ấy, bà đã hóa thành một Thiên nữ trong Lâu đài của mình, hiện xuống cõi trần, tiến đến gần Tôn giả Mahà-Moggallàna và cung kính đảnh lễ Tôn giả.
(Hết trích)
(Tiểu bộ Kinh – Tập II Khuddaka Nikàya – Thiên Cung Sự, Phẩm II Cittalatà, 4.(21). Chuyện thứ tư: Lâu Đài Của Nàng Chiên-Đà-La (Candàlì-Vimàna, Giáo Sư Trần Phương Lan dịch.)
Như vậy, việc chiêm bái, cung thỉnh, cung tiễn vv bằng cả tấm lòng tôn kính hân hoan, và nuôi dưỡng đức tin và sự tôn kính đó cho đến ngày xả bỏ báo thân, thời sẽ được sinh thiên, như lời Phật dạy.
3. Sẽ được vãng sanh Tịnh Độ như tâm nguyện: Với pháp lành này (thành kính chiêm bái, cung thỉnh, cung tiễn vv xá lợi Phật trong niềm hân hoan hỷ lạc), thay vì hướng về chư thiên, những hành giả Tịnh Độ dốc lòng hồi hướng nguyện sanh về cõi Cực Lạc, sẽ được vãng sanh như tâm nguyện (như đã được ghi lại trong các Kinh Đại Thừa)
Trong Kinh Bi Hoa khi còn trong nhân địa, tiền kiếp của Phật A Di Đà là Vua Chuyển Luân Thánh Vương Vô Tránh Niệm đối trước Phật Bảo Tượng đã phát 48 đại nguyện trong đó có nguyện:
Nguyện khi con thành chánh giác xong, ở vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp thế giới Phật khác có chúng sanh nào được nghe danh hiệu của con mà tu các pháp lành, muốn được sanh về thế giới của con, nguyện cho họ sau khi xả bỏ thân mạng, nhất định sanh về, chỉ trừ người phạm tội ngũ nghịch, hủy báng thánh nhơn, phá hoại chánh pháp.
(Kinh Bi Hoa, phẩm 4: Nguồn gốc các Bồ Tát được thọ ký, Hán Văn: Đàm Vô Sấm, Việt Văn: Thích Nữ Tâm Thường, trtr. 179 -180; Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Vol.3, No.157).
Nguyện 18: Nguyện mười niệm vãng sinh. (Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh: Tỳ Kheo Pháp Tạng phát 48 đại nguyện trước Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai)
Âm: Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sinh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sử hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sinh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sinh giả, bất thủ Chánh Giác. Duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Nghĩa: Khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu con, hết lòng tin tưởng, nếu có điều lành nào, dốc lòng hồi hướng nguyện sinh về cõi nước con, cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh, thề không thành Chánh Giác. Ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Giảng: Pháp sư Tịnh Không (1994)
Công đức danh hiệu là chân thật, không thể nghĩ bàn. Chúng ta xem kỹ lời nguyện này. Trong đây, một chữ cũng không được bỏ sót. “Khi tôi thành Phật, chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu tôi”. “Nghe” đã bao gồm lòng tin chân thật, phát nguyện thiết tha. Nếu nghe mà không tín - nguyện, chính là nghe được mà không thấy được. Cho nên, tiếp theo Ngài nói “chí tâm tín nhạo” (hết lòng tin tưởng ưa thích), bốn chữ này là then chốt quan trọng. Chúng ta có thể vãng sinh hay không, quyết định ở bốn chữ này. “Chí tâm” là chân thành đến tột cùng, hay còn gọi là chân tâm. Chân thành tột cùng thì tâm trong sạch....
“Tín” là lòng tin chân thật, không có một chút hoài nghi. “Ưa thích” là hoan hủy ưa thích Phật A-di-đà, ưa thích thế giới Cực Lạc, chân thật muốn sinh về. Như vậy mới được! “Tất cả căn lành, tâm luôn hồi hướng”. Ngay trong đời này, một chút ít việc thiện gì, tâm lành hạnh lành nào, đều hồi hướng trang nghiêm Tịnh độ, đều đem công đức này cầu sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Trong sách Yếu Giải, Đại sư Ngẫu Ích nói rằng: “Được vãng sinh hay chăng, đều do tín - nguyện có hay không; phẩm vị cao thấp đều do công phu trì danh sâu hay cạn”. Đây đều căn cứ lời nguyện này, phẩm sen cao thấp là căn cứ theo công phu niệm Phật. Công phu trì danh sâu thì phẩm vị cao, công phu cạn thì phẩm vị thấp.
Nguồn: Chùa Hoằng Pháp: https://chuahoangphap.com.vn/thu-vien-kinh-sach/chi-tiet-48-dai-nguyen-cua-duc-phat-a-di-da-72/index-2617/
Đức tin và lòng tôn kính với Đức Phật trong niềm hân hoan cần phải được nuôi dưỡng hàng ngày cho đến cuối đời bằng cách hành theo lời Phật dạy: đoạn ác tu thiện, bỏ tà theo chánh, giảm bớt tham sân si, sống nhu thuận vị tha, sống biết chia sẻ yêu thương, từ bi bác ái đến với mọi người, sống có ý thức bảo vệ môi trường, tôn trọng sự sống của muôn loài…
Nguyện đem công đức này
Hướng về chúng sanh khắp pháp giới
Đồng sanh nước Cực Lạc.
Trong tâm từ
Tâm Tịnh
03/06/2025, Toowoomba, Queensland, Australia
Bình Luận Bài Viết