Trái ngược với René Descartes (a French philosopher and mathematician): Tôi không nghi ngờ cái bản lai diện mục của ngã, do đó tôi không nghĩ đến cái bản lai diện mục của nó, cho nên tôi không ngã vào cái bản lai diện mục của mình.
Không nghi cho nên không nghĩ vì vậy không ngã.
"I doubt not, therefore I think not, therefore I am not!" Tru Le
Nghi ngờ, tơ tưởng, hiện sinh!
"to doubt, to think, to be!" Tru Le
Vô nghi, vô ngại, vô sanh/không sanh/không sống.
"not to doubt, not to think, not to be/to not be/to be not!" Tru Le
Tôi không nghi ngờ, ‘tôi thở, tôi sống.’ Tôi cũng không nghĩ tôi sống để thở, vậy thì tôi thở để sống. Nhưng tại sao tôi lại phải thở mới sống? Và, nếu tôi không thở, tôi không sống vậy thì ai nghi, ai nghĩ, ai sống để thở và rồi thì ai thở để mà sống đây?
Cũng không nên nghe nói thở để sống và vội cả tin mà phải biết, muốn sống đúng phải biết cách thở – hít vào oxygen (Dioxygen, O2) và thở ra thán khí (Carbon dioxide, CO2) chứ hít vào những thứ khác thì chỉ có nước ngưng thở ... ra.
Đa số chúng sinh không có nghĩ tới hơi thở cho tới khi không thở được. Tôi không biết không thở có thể chết không chứ nín thở có thể đưa đến ngưng thở vĩnh viễn. Hay, tôi cũng nghi là hít vào mà không thở ra hay ngược lại, thở ra mà không hít vào thì lúc đó không có thể còn tâm trí nào nữa để mà ‘nghi, nghĩ, sống’ như Descartes tư duy nghi ngờ về cái tôi ... có biết thở hay không?
Khi tôi đang thở bằng phổi thì tôi không thể ngờ rằng tôi cũng có thể thở bằng bụng. Khi tôi quán hơi thở bụng thì tôi bất ngờ là tôi không cần hoàn toàn thở bằng phổi mà vẫn thở.
Vậy thì tôi có thở tôi có sống. Tôi không thở, tôi không sống? Không có thể nghi còn thở còn sống cùng lúc ngờ không còn thở không còn sống?
Tôi nghi cái ngã không sống để thở vì cái ngã không cần thở để sống?
Réne Descartes explained,
Latin: "Non posse à nobis dubitari, quin existamus dum dubitamus: at que hoc esse primum quod ordine philosophando cognoscimus."
English: "That we cannot doubt of our existence while we doubt, and that this is the first knowledge we acquire when we philosophize in order."
The proposition is sometimes given as dubito, ergo cogito, ergo sum. This fuller form was penned by the eloquent French literary critic, Antoine Léonard Thomas, in an award-winning 1765 essay in praise of Descartes, where it appeared as "Puisque je doute, je pense; puisque je pense, j'existe." In English, this is "Since I doubt, I think; since I think I exist"; with rearrangement and compaction, "I doubt, therefore I think, therefore I am", or in Latin, "dubito, ergo cogito, ergo sum".
A further expansion, dubito, ergo cogito, ergo sum—res cogitans ("…—a thinking thing") extends the cogito with Descartes's statement in the subsequent Meditation, "I am a thinking (conscious) thing, that is, a being who doubts, affirms, denies, knows a few objects, and is ignorant of many …". This has been referred to as "the expanded cogito".
Tôi nghi, “We cannot doubt of our existence while we doubt”trên đây của Descartes nó có ý nghĩa như thế này: Chấp ngã lúc tưởng!
“Thuyết pháp giới duyên khởi chủ trương Bản Thể khi Tĩnh thì là Chân Như, khi Động thì là Vạn Hữu. Như vậy, Bản Thể tức là Hiện Tượng; Hiện tượng tức là thiên biến vạn hóa của Bản Thể. Bản Thể và Hiện Tượng không thể nào tách rời nhau, như sóng không tách rời khỏi nước.”
Thí dụ: Khi đã nghi chỉ là bóng (shadow, hint) thì không có thể nghi vì có hình (thể). Chúng được quan sát như là nhị nguyên nhưng chúng bất khả phân, và chúng thường được gọi là ‘như hình với bóng.’ Có hình thì có bóng. Ngược lại, ‘không hình, không bóng.’ Vô nhất vật?
Hay, “Thần hồn nhát thần tính”. Chúng ta không thể nghi thần tính có bị nhát trong lúc nghi không có thần hồn ... để nhát. Bất ngờ nhất là vô tâm tính?
Chúng ta không có thể nghi là Bản Thể phải là Ngã, là Thường. Nếu khi nghi Chư Pháp là Vô Ngã, Vô Thường.
Chúng ta không có thể nghi là Bản thể phải là Thanh Tịnh. Nếu khi nghi Vạn Pháp là Uế Tạp.
Nếu khi nghi Vạn Pháp là Khổ thì không có thể nghi Bản Thể phải là Lạc.
Tôi xin mạo muội Phật Giáo hóa câu, “je pense, donc je suis” Descartes’ Discourse on the Method, "I think, therefore I am," “Cogito, ergo sum”: Tâm động (cogito) nên duyên khởi (ergo) thành chúng sinh (sum.)
‘Chúng’ có nghĩa là số nhiều, ‘Sinh’ có nghĩa là sinh vật. “Chúng sinh,” ngoài nghĩa cạn là nhân sinh và thú vật, nó còn có nghĩa ‘sâu’ là ‘những vật’ được cấu tạo thành từ vô lượng sinh vật (tỷ tỷ lượng tử và vô lượng tử, vô sắc và hữu sắc, vạn vạn pháp, vạn tỷ hiện tượng).
Vô minh, ích kỷ, chấp ngã!
Hay, Nhất niệm, vô minh sanh!
Tâm tưởng tạo ra chúng sinh (tâm tạo ra tất cả.)
Trong thời gian của Réne Descartes, 1596 – 1650, triết lý Đông Phương và Phật Giáo rất xa lạ với Tây Phương và nhất là họ đã bị thâm nhiễm ảnh hưởng độc thần của Ca Thô Lích Giáo và quyền lực chi phối của Vatican. Những quan niệm triết lý và khoa học tiến bộ như Galileo Galilei và Réne Descartes đã bị tòa thánh La Mã cấm đoán, huống gì văn hóa Đông Phương. Có thể vì vậy, những triết gia như Descartes chưa có diễm phúc đọc qua chân kinh của Phật Giáo từ Đông độ.
Descartes có thói quen nằm nướng trên giường mỗi buổi sáng, nơi ông đã tiếp tục theo dỏi (perceive) giấc mộng đời ông, rồi sát nhập nó vào trong phương pháp tỉnh giấc của ông trong ý thức ‘thiền nằm’ ...
“Descartes habitually spent mornings in bed, where he continued to honor his dream life, incorporating it into his waking methodologies in conscious meditation ...”
Phương thức của Descartes hổn hợp toán học và lý luận với triết lý để giải thích thế giới vật chất trở qua vật lý siêu hình khi đã đối diện với những câu hỏi của lý thuyết; nó kéo ông ta tới chiêm ngưỡng sự hiện hữu của thiên nhiên và linh hồn-thể xác nhị phân, tìm thấy điểm liên hệ cho xác với hồn tại tuyến thần nhãn. Nó cũng chỉ dẫn ông ta biết ý nghĩa khái niệm nhị nguyên (dualism): vật chất gặp không vật chất. Bởi vì hệ thống triết lý trước của ông ta đã cho con người một dụng cụ để định nghĩa cái gì là thật, quan niệm này đưa đến tranh luận. May mắn, Descartes cũng đã tự sáng chế ra phương pháp hoài nghi, hay chủ nghĩa nghi ngờ của Cartes, từ đó trở thành triết lý của tất cả chúng ta.
“Descartes’ approach of combining mathematics and logic with philosophy to explain the physical world turned metaphysical when confronted with questions of theology; it led him to a contemplation of the nature of existence and the mind-body duality, identifying the point of contact for the body with the soul at the pineal gland. It also led him to define the idea of dualism: matter meeting non-matter. Because his previous philosophical system had given man the tools to define knowledge of what is true, this concept led to controversy. Fortunately, Descartes himself had also invented methodological skepticism, or Cartesian doubt, thus making philosophers of us all.”
René Descartes Biography, Academic, Philosopher, Scientist, Mathematician(1596–1650)
Những điều trên cho thấy, trí tuệ và giác ngộ là bản lai của chúng sinh không nhất thiết phải là Phật Tử. Tuy nhiên, cho đến ngày nay ít có ai nhận thức được Descartes cũng như Feynman và rất nhiều thiện tri thức Tây Phương đã đạt được trí tuệ và giác ngộ tương đương với La Hán Quả.
Tiếc rằng, Descartes chưa học thấu được phương pháp hữu nghi của Đức Phật. Bài học vở lòng là đừng mù quáng vội cả tin bất cứ ai ngay cả những gì ta [như lai] nói mà phải chính mình tự kiễm chứng, tự kinh nghiệm và tự trãi qua để biết rõ thực hay giả trước khi hết nghi nan. Bài học kế tiếp là sau khi hết nghi ngờ cũng không phải vì vậy mà lệ thuộc vào tín ngưỡng mà phải tự mình khai thác và làm chủ lấy nó. Lời trăn trối đó được Đức Phật tượng hình qua thí dụ, tục diệm truyền đăng, tự mình thắp đuốc mà đi chứ không nên dựa vào kẻ dẫn đường. Dĩ nhiên, cái chiêu thức tự mình thắp đuốc mà đi này không ứng dụng cho kẻ mù đi đêm/ngày hay kẻ không mù nhưng lại thắp đuốc soi đường ban ngày. Cho nên, đúng như lời Phật dạy ở trên, Như Lai nói vậy chứ không phải vậy.
Tôi hoài nghi (I doubt), cho nên tôi tư duy (cogito, je pense, I think [to form or have in the mind],) vì vậy (ergo, donc, therefore,) chúng sinh ra (sum. The French verbs avoir [to have], être [to be], and faire [to do/make] are the most important on this matter.)
‘Cogito ergo sum’ của Descartes đã từng là một rừng tranh luận với nhiều tư tưởng nhị nguyên đầy mâu thuẩn? Kiến thức của những triết gia và học giả này chỉ giới hạn tới ‘cái ngã từ tâm tưởng’ nhưng đã dừng lại ở biên giới vô ngã, vì đa số còn sở trụ vào kiến thức hữu hạn cho nên đã chưa đủ trí tuệ để xuyên qua bất nhị, chiếu kiến kỳ tâm.
Theo ngu ý, cái vô minh là cho đến bây giờ đa số chúng ta vẫn đồng ý và lầm tưởng với công án ‘cố tình nhưng vô ý’ ‘Cogito ergo sum’ của Descartes là chân lý của cái tôi nhưng cũng vẫn bất đồng căn trí về cái hiện hữu đó (hữu ngã, sum, to be, ego) mà xem nhẹ cái ý ‘thiên thượng thiên hạ,’ cái nhân do tâm tưởng (cogito) bởi từ những nhân duyên (ergo) liên tục tái tạo ra cái kết quả phụ thuộc ‘duy ngã độc tôn,’ (cái ngã độc nhất vô nhị.)
Trong cái tâm thức ‘cogito,’ sẽ chỉ là cái tâm tưởng ‘cogito.’ Trong cái duyên thức ‘ergo,’ sẽ chỉ là cái nghiệp tưởng ‘ergo.’ Trong cái ấn tượng ‘sum,’ sẽ chỉ là cái thọ tưởng ‘sum.’
Theo tôi, thì không có "sự suy nghĩ" lẫn không có "người tư duy." Không có "duyên khởi" lẫn không có kẻ "khởi duyên." Không có "sự cảm thấy" lẫn không có "người cảm nhận."
Hay đơn giản hơn: Không tâm, không duyên khởi, không ngã để mà tư nghi. Vì chấp có nên mới sinh ra nhiều tư nghị. Thí dụ, ‘Không một vật’ có thể giảng giải được (khả tư nghị) nếu chấp nó có nhưng khi diển tả được nó rồi thì lại chấp là nó không còn là ... vô nhất vật nữa. Ngay trong lúc đó, nó trở thành bất khả tư nghì?
The phrase originally appeared in French as “je pense, donc je suis,” [je is not in capital] and in English as "I think, therefore I am." in Descartes’ Discourse on the Method, 1637
Tôi tư duy nên tôi hiện hữu! Nhất niệm biến thành tôi! Vì tôi động lòng trần nên sa ngã xuống đây.
Từ đó, tôi tưởng, rằng tôi là tôi!
Phật giáo xuyên thấu cái tôi ở trên:
Tôi ngắn gọn, “an tâm kiến tánh; ... ưng vô sở vô trụ; nhi sinh kỳ tâm!”
Tâm tịnh tánh hiện; ngã không vướng mắc; tri kiến như lai.
Tôi tưởng, hình như tôi biết tiếng ‘La Tanh’:
Haud cogito, nullus ergo, quinymo quinimmo sum
Không tưởng, không duyên, không sanh.
Ngắn gọn nhất: Vô tâm, vô ngã!
Duy Ngã độc nhất vô nhị
“Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn!
Trên đời này duy chỉ có cái ngã là ... ‘nhất vật’, (single, one only; unique; sole.) DNA của Nó tuyệt đối độc nhất. Bản chất của nó không trùng hợp và diện mục của nó không giống với bất cứ những con giáp nào mà chúng ta đã từng biết cả.
Tôi và hơn 6 tỷ nhân sinh trên thế giới chỉ chung nhau có một cái ‘đồ’ ... ngã, duy nhất bất nhị đó.
Sau đây là vài quan niệm điễn hình của vài tông phái có ảnh hưởng quan trọng trong Phật Giáo:
Pháp Tướng Tông quan niệm rằng A Lại Da Thức chỉ là nơi tập hợp của mọi nghiệp xưa cũ. “Vì tất cả những gì xảy ra và được chúng ta nhận biết đều chỉ là sự sinh khởi của những chủng tử chất chứa trong a-lại-da thức, nên xét theo ý nghĩa này thì có thể nói rằng chính a-lại-da thức đã tạo ra tất cả, kiểm soát tất cả. Pháp tướng tông cho rằng tất cả các pháp đều do nơi thức, từ nơi thức mà sinh khởi, rồi vận hành trong thức và cũng diệt mất đi trong thức ấy. Tuy là có 8 thức, nhưng chính lý thuyết về a-lại-da thức mới là quan trọng nhất và bao gồm trong nó tất cả.” (Các Tông Phái Đạo Phật, Đoàn Trung Còn)
Duy Thức Tông giải thích thế giới vũ trụ chi tiếc như sau: Các chủng tử (sa. bīja) của quá khứ theo đó mang sẵn những hạt mầm của Nghiệp (sa. karma, pi. kamma) được chứa đựng trong A Lại Da Thức và đợi nhân duyên đầy đủ sẽ hiện thành hiện tượng tâm thức. Các chủng tử đó chín ‘muồi’ theo tác động của Nghiệp (sa. Karma,) chúng tác động qua lại lẫn nhau làm con người thấy một ảnh ảo mà tưởng nó là có thật. A Lại Da thức được so sánh với một dòng nước chảy, [dòng tâm thức,] luôn luôn mới mẻ và liên tục, tiếp tục sinh hoạt động sau khi chết và sự liên tục của nó chính là cơ sở của sự tái sinh.
Duy Thức Tông, khái niệm A Lại Da Thức giải thích sự hiện hữu của nhân sinh và của cái Ta (Ngã.) Các tư tưởng có tính riêng tư đó tác động trong mối liên hệ với Vô Minh (sa. avidyā) và Ngã Chấp (sa. ātmagrāha) làm cho mỗi người tưởng rằng có một cái Ta đứng sau mọi hành động của mình. Tư tưởng đó lại gây tiếp các chủng tử của nghiệp, và nghiệp lại tiếp tục tạo tác. Vòng lẩn quẩn này chỉ được đối trị bằng quan điểm cho rằng, không hề có một thế giới độc lập ngoài Tâm. Theo đó thế giới chỉ là phản ánh của A Lại Da Thức, con người chỉ thấy bóng dáng của chính tâm thức nó. A Lại Da Thức thường được xem như là thật tại cuối cùng, có khi được gọi là Chân Như (sa. tathatā).
Duy Thức Tông dựa vào thuyết dưới đây – được gọi là thuyết Tam Tự Tính (sa. trisvabhāva) – để giải thích sự cảm nhận, nhận thức ngoại cảnh của nhân sinh.
Tam Tự tính là:
1. Biến kế sở chấp tính (zh. 遍計所執性, sa. parikalpita-svabhāva), còn được gọi là huyễn giác (zh. 幻覺) hay thác giác (zh. 錯覺): Tất cả những hiện hữu đều là kết quả của trí tưởng tượng (huyễn giác,) do chấp trước, cho rằng sự vật trước mắt là có thật, là độc lập;
2. Y tha khởi tính (zh. 依他起性, sa. paratantra-svabhāva,) nghĩa là dựa vào cái khác mà sinh ra: Tất cả pháp hữu vi đều do Nhân Duyên mà phát sinh, lệ thuộc vào nhau, không có tự tính (sa. asvabhāva);
3. Viên thành thật tính (zh. 圓成實性, sa. pariniṣpanna) Tâm vốn thanh tịnh, là Chân như (sa. tathatā), Như Lai tạng (sa. tathāgata-garbha), là tính Không (sa. śūnyatā).
Trong thuyết A Lại Gia duyên khởi, Long Thọ Bồ Tát (Nagarjurna, thế kỷ 2 D.L.) cho rằng: Chân Như là tuyệt đối; Vạn pháp là tương đối. Tuyệt đối không trực tiếp tạo ra tương đối, mà phải qua trung gian A Lại Da. A Lại da hay Hàm Tàng Thức gồm đủ mọi chủng tử của chúng sinh, của mọi biến hóa chuyển dịch.
Thuyết này cũng tương tự như thuyết Logos hay Logos Spermatikos của Heraclitus (thế kỷ 6 trước C. N.) hay của Plotinus (205-270) bên Âu Châu hay như thuyết Vô Cực sinh Thái Cực của Chu Liêm Khê (1017-1073) triều Tống.
Tại vì những cảm nhận "vô minh" của chúng nhân sinh nên nó phát sinh ra một ấn tượng về cái "Ta." Ấn tượng về cái "Ta" là một sai lầm từ căn bản, vì thật ra chỉ có cái ấn tượng "cảm nghĩ" (feeling) chứ không có người thọ tưởng "cảm nghĩ." Và cũng vì ích kỷ mà cho rằng có tự ngã nên con người bám víu vào đó để chịu Khổ.
Theo tôi, thì không có "ấn tượng cảm nhận" lẫn không có "thọ tưởng cảm nhận."
Cũng như bài luận này, không có người viết; không có người đọc. Không có kẻ nghe pháp lẫn không có người thuyết pháp. Không có cái khổ đau lẫn người bị đau khổ để độ.
Bình Luận Bài Viết