Xá lợi Đức Phật là kết tinh từ Đại Từ Đại Bi Đại Trí (mà Ngài đã chứng đạt, khi thành tựu thập ba-la-mật viên mãn qua vô lượng kiếp tu Bồ Tát Đạo). Vì lòng Đại Từ Đại Bi, sau khi thị hiện nhập diệt, Ngài để lại vô số xá lợi; và với trí tuệ, Thế Tôn biết rõ xá lợi này sẽ mang lại lợi ích, hạnh phúc cho loài người, loài trời theo dòng thời gian đích thân chiêm bái, hoặc tôn kính xá lợi như kính lễ chính Ngài (công đức bất khả tư nghì như thế, đều được khả chứng trong cả hai tạng kinh chính thống: Pali tạng và Hán tạng).
Cho dẫu tất cả các pháp đều là pháp tánh, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng để thấy được Phật tánh, chính là từ nơi lòng tin (vào Tam Bảo), đại tín tâm, vì từ đây mà các căn lành, thiện pháp được khởi sự, hiển bày, tích tập, theo đó tâm từ bi, đại từ đại bi được trưởng dưỡng đồng thời cùng với trí huệ cho đến Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất.
Bài chia sẻ này tập trung hiển bày Xá Lợi Đức Phật - Đại Từ Đại Bi, Đại Trí, được tiếp xúc bởi những người hành hương, những Phật tử với Đại Tín Tâm bằng cả lòng thành kính lễ Ngài, khơi dậy Phật Tánh, hiển bày Thiện Pháp cho đến Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất.
1. Xá lợi Đức Phật – Đại Từ Đại Bi Đại Trí Tuệ, là duyên cho Pháp hữu với Đại Tín Tâm khởi lòng kính thương, tôn kính và tán thán Như Lai bằng những lời mỹ từ hoa từ tâm Đại Từ Đại Bi
Rất nhiều người trong hàng triệu người hành hương với cả lòng kính tín Phật, khi tiếp xúc với xá lợi Ngài, khiến dâng trào cảm xúc kính thương và tôn quý Ngài bằng những cử chỉ lễ bái, bày tỏ lòng biết ơn với Thế Tôn và tán thán đức hạnh cao khiết của Ngài, (vì lòng đại từ đại bi lẫn mẫn chúng sanh của Như Lai), bằng những lời hoa mỹ. Lòng kính thương đối với Như Lai là biểu pháp của Tâm Đại Từ Đại Bi, Phật Tánh gặp duyên xá lợi Ngài mà hiện khởi và tỏ bày. Thậm chí có những người dường như thể có những cử chỉ tôn kính khác lạ (đối với một số người, những cử chỉ đó được cho là khó coi), nhưng lại xuất phát từ lòng kính thương, biết ơn sâu sắc ân đức của họ đối với bậc Đại Hùng Đại Lực, Bậc Toàn Giác, Bậc Đại Từ Đại Bi Toàn Thiện, Bậc Vô Thượng Sỹ, Bậc Điều Ngự, Bậc Đại Trượng Phu, Thầy của trời người…
Trường hợp sự kính mộ Thế Tôn bằng cử chỉ ‘hạ liệt’ của Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosola, là một thí dụ minh thị cho sự giao thoa giữa Đại Từ Đại Bi Đại Trí Huệ của Đức Phật và Đại Tín Tâm của Vua Ba-tư-nặc, nguồn cội cho Phật tánh khởi hiện (bằng lòng từ ái, kính thương, kính lễ, những lời ca ngợi và tán thán), như đoạn kinh văn, được trích dẫn từ Thánh Điển Pali, Tăng Chi Bộ Anguttara Nikàya, Chương 10 Pháp như sau:
Tâu Ðại vương, đây là ngôi tịnh xá, có cửa đóng. Ngài hãy đi đến ngôi nhà ấy (Đức Phật đang tịnh cư), đừng có tiếng động, đừng có hấp tấp, bước vào mái hiên, đằng hắng, rồi gõ nơi then cửa. Thế Tôn sẽ mở cửa cho Đại vương.
Rồi vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosalà, đi đến ngôi tịnh xá cửa đóng ấy, đi đến không có tiếng động, không có hấp tấp, bước vào mái hiên, đằng hắng, rồi gõ vào then cửa. Thế Tôn mở cửa. Rồi vua Pasenadi, nước Kosalà đi vào tịnh xá, đầu cúi rạp xuống trước chân Thế Tôn, miệng hôn chân Thế Tôn, lấy tay xoa bóp, và nói lên tên mình:
- Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosalà. Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosalà.
- Thưa Ðại vương, do Ðại vương thấy ý nghĩa lợi ích gì mà Ðại vương lại làm những cử chỉ hạ liệt quá mức như vậy và tỏ lộ lòng kính mộ đối với cái thân này?
Bạch Thế Tôn, để nêu rõ lòng biết ơn của con, để nói lên lòng cảm tạ của con đối với Thế Tôn, mà con làm những cử chỉ hạ liệt quá mức như vậy, và tỏ bày lòng từ ái đối với Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là vị đã thực hiện hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, là vị đã an lập Thánh chánh lý cho đa số, tức là chánh chơn pháp tánh, thiện pháp tánh. Bạch Thế Tôn, vì Thế Tôn là vị đã thực hiện hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, tức là chánh chơn pháp tánh, thiện pháp tánh; vì con thấy ý nghĩa lợi ích này nên con đã làm những cử chỉ hạ liệt quá mức như vậy, và tỏ bày lòng kính mộ đối với Thế Tôn.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn có giới, có Phật giới, có Thánh giới, có thiện giới, có đầy đủ thiện giới. Bạch Thế Tôn, vì rằng Thế Tôn có giới, có Phật giới, có Thánh giới, có thiện giới, có đầy đủ thiện giới; bạch Thế Tôn, vì con thấy ý nghĩa lợi ích này, mà con đã làm những cử hạ liệt quá mức như vậy và bày tỏ lòng kính mộ đối với Thế Tôn. (Hết trích)
(Tăng Chi Bộ Kinh. Chương Mười Pháp. III. Phẩm Lớn. (X) (30) Kosalà (2)
Vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) nước Kosolà là ai?, là một vị Bồ Tát đã được thọ ký, và sẽ thành một vị Phật toàn giác hiệu là DHAMMARÀJÀ-MUNI, là vị Phật thứ ba trong ngày vị lai sau Đức Bồ Tát Từ Thị thành Phật Di Lặc, và Phật Ràmadeva, như đoạn kinh văn trích dẫn từ Chánh Giác Tông (Buddhavamsa), Tiểu Bộ Kinh, như sau:
Kế sau đó (Sau Đức Phật Mettaya_Phật Di Lặc,và Đức Phật Ràmadeva), Đức Phật DHAMMARÀJÀ-MUNI (chính là đức vua Ba tư nặc, PASEMANDI KOSALA) khi thấy 4 điềm rồi chán nản xuất gia, đắc đạo dưới cây Dừng, tuổi thọ 5 muôn năm, bề cao ngài 8 thước. Khi ngài đi đâu mỗi bước đều có bông sen bằng bánh xe mọc lên đở bàn chân ngài, khi ngồi thì có bông sen bằng 7 thứ ngọc mọc lên làm bảo tọa cho ngài ngồi. Do nhờ pháp Ba-la-mật của Đức Phật mà có cây Như ý thọ mọc lên rất nhiều để cho bá tánh cần dùng có đủ thực phẩm và đồ trang sức.
(Tiểu Bộ Kinh _Khuddaka Nikàya. Chánh Giác Tông Buddhavamsa, Phần 2. 10 vị Phật tương lai)
2. Đại Tín Tâm là Phật Tánh: Phật dạy trong Đại Bát Niết Bàn Kinh rằng Đại Tín Tâm là Phật tánh, vì sao vậy?
2.1 Tín Thọ, Pháp Thọ những Pháp bất khả tư nghì, khó tin của chư Phật và chư Đại Bồ Tát
Với đại tín tâm, Pháp hữu tín thọ lời Phật dạy không có khó khăn, cho dẫu những pháp rất khó tin (nan tín chi pháp), vượt qua trí thanh văn và duyên giác, kiến thức thế gian, vượt qua sự nghĩ bàn của người đời (Cảnh giới của chư Phật không thể nghĩ bàn, nếu bàn luận, tâm sẽ đi đến cuồng loạn – Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikàya, Chương Bốn Pháp). Vì thế, nương nhờ trí của Như Lai hoặc/và Đại Bồ Tát, tức là Tùy Trí Như Lai, thời hành giả với đại tín tâm sẽ có Pháp Trí.Chẳng hạn: Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện là kinh khó tin. Cho nên, những ai tín thọ Pháp này, tùy thuận diệu Pháp này, thời có Pháp Trí do nương nhờ trí huệ của Đức Phật và Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (Tùy Trí Như Lai), mặc dầu chưa tự thân chứng được trí vô ngại như Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, mà Ngài đã tu vô lượng kiếp mới chứng được trí vô ngại, nên nghe lời dạy của Đức Phật về Địa Tạng Bổn Thệ Lực Kinh, Ngài tín thọ liền, như đoạn kinh văn trích dẫn từ Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện:
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành, chứng được Trí Vô Ngại, nghe lời Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng Tiểu Quả Thanh Văn, Thiên Long Bát Bộ, và những chúng sanh đời vị lai, dẫu nghe lời thành thật của Như Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong Ðức Thế Tôn nói rõ Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát ở nhân địa đã tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?"
(Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh. Quyển Thượng. Phẩm thứ nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Đao Lợi)
Người có đại tín tâm, thời được ví như là hoa sen trắng sanh trong lửa, như đoạn kinh văn được trích dẫn dưới đây:
Này A Nan! Dù có lửa mạnh đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, cũng phải vượt qua để đến nghe, tin danh hiệu đức Phật ấy, người như vậy được gọi là hoa sen trắng sanh trong lửa.(Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Phật Danh Hiệu Lợi Ích Đại Sự Nhân Duyên Kinh. Hán văn: Thiên Trúc Tam Tạng Khang Tăng Khải dịch từ Phạn Văn, đời Tạo Ngụy. Việt Văn: Đệ Tử Như Hòa dịch từ Hán Ngữ)
2.2 Tâm lượng rộng lớn, vì thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật và chư Bồ Tát, tùy hỷ tất cả căn lành, pháp lành, tất cả pháp môn vì xả bỏ tánh kiêu mạn
Vì những Pháp hữu có đại tín tâm, nên họ thọ trì tất cả lời dạy của chư Phật, chư Đại Bồ Tát. Những Đại Nguyện Bi Trí Viên Mãn của Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát đều được tín thọ, pháp thọ bằng cả tấm lòng tri ân. Nhờ đó, người có đại tín tâm cảm được tấm lòng đại từ đại bi đại trí đại dũng của chư Phật, chư Đại Bồ Tát, lân mẫn thương xót chúng sanh, và tìm mọi phương chước cứu độ tất cả hữu tình trong lục đạo, đặc biệt tam ác đạo qua việc thành tựu viên mãn những đại thề nguyện thâm sâu sau vô lượng kiếp thực hành Bồ Tát Đạo. Vì cảm được lòng đại từ đại bi bao la của Quý Ngài mà người có đại tín tâm, dâng trào cảm xúc tán thán, ngợi ca đức hạnh của chư Phật, chư Bồ Tát, cho đến tín thọ, và hành theo lời Phật dạy để trợ duyên cứu khổ chúng sanh. Nhờ vậy, tâm đại từ, đại bi của người có đại tín tâm được trưởng dưỡng. Tâm lượng trở nên rộng lớn bao la. Người có tâm lượng rộng lớn, sẽ phụng thờ, tôn trọng và tùy hỷ tất cả các pháp lành, căn lành, tất cả các pháp môn; nhờ vậy tánh kiêu mạn được tiêu trừ. Đức Phật dạy trong Đại Bát Niết Bàn Kinh: “Chơn giải thoát không như ngôi nhà hẹp, mà như ngôi nhà thật rộng, dung chứa được rất nhiều.” Đại sỹ Duy Ma Cật dạy, “Vì muốn phụng thờ tất cả nên xả bỏ tánh kiêu mạn.”
2.3 Thành tựu bố thí ba-la-mật cho đến trí huệ ba-la-mật
Phật dạy trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, “Đại tín tâm là Phật tánh, vì người có đại tín tâm quyết định sẽ thành tựu bố thí ba-la-mật cho đến trí huệ ba-la-mật.”
Làm sao biết người có lòng tin, Ngài Ananda hỏi Phật, được ghi lại trong Thánh Điển Pali, Tăng Chi Bộ Kinh Anguttara Nikàya. Chương Ba Pháp như sau:
Này Ananda, qua ba pháp này cho biết người ấy có lòng tin: Muốn gặp người có giới đức, thích nghe diệu pháp, hoan hỷ thí xả. Qua ba Pháp này, biết người ấy có lòng tin.
Những thiện hữu nào với đại tín tâm, thời họ rất vui và hoan hỷ bố thí, cúng dường để trang nghiêm tâm, để hồi hướng vô thượng bồ đề; bố thí với tâm lượng rộng mở vô ngã vị tha, không lẫn tiếc. Nhờ bố thí với tâm rộng mở không hối tiếc, không trụ chấp, tức là huệ thí, nên tâm đại từ đại bi, cùng với trí tuệ, theo đó, được trưởng dưỡng lớn dần cho đến sung mãn. Nhờ vậy, Phật tánh ngày càng hiển lộ rõ ràng.
Nhờ tín thọ lời Phật dạy, cho nên, qua thời gian tu tập và lắng nghe diệu pháp, trí tuệ càng ngày càng sáng, cho đến thâm hiểu trí tuệ bát nhã. Phật nói trong Kinh Kim Cang sau 500 năm Như Lai nhập diệt, người nghe Kinh Kim Cang mà lòng hân hoan tín thọ, là thành phần hy hữu. Vì người có đại tín tâm, lắng nghe lời dạy của Như Lai về Tâm Vô Trụ, thời hoan hỷ tín thọ liền vì qua thời gian tín thọ và hành theo lời Phật dạy, trí biết rõ tất cả pháp hữu vi đều huyễn hoặc, không thật có: không có tứ tướng: Không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả; Tất cả các pháp đều là chỗ hiện của pháp tánh; không chấp hữu chấp vô, tức là trí vô trụ (xem phần 3). Sống với trí vô trụ không gián đoạn cho đến sung mãn, tác thành căn cứ địa, chứng đạt và an trú là việc hành giả cần phải luôn luôn lưu tâm thực hành miên mật trong một thời gian dài, thời mới có thể sống tự tại trong sinh tử bằng trí bát nhã.
Trong Kinh Bổn Duyên, Quyển 16 Chuyện thứ 7 kể rằng có một chàng trai hiếu thảo trên đường đi vô tình lượm được một quả cam, nó vừa thơm, vừa đẹp, ở đời ít có. Chành trai liền nghĩ mang quả cam này về nhà cúng dường Cha Mẹ. Duyên lành lại đến khi lần đầu thấy một Đại Nhân (Đức Phật mà anh ta chưa từng gặp trong đời này) cùng với Tăng Đoàn đi thọ bát tại nhà thí chủ trong thành Tỳ-xá-ly. Với lòng đại tín tâm, chàng trai ngồi ngay chỗ có dấu chân Phật (dấu chân có hình bánh xe vẫn còn lưu lại trên cát), đợi Đức Phật để cúng dường quả cảm (cho cả phần Cha Mẹ). Do tích tập sáu ba la mật qua vô lượng kiếp tu hành Bồ Tát Đạo, cho nên với lòng đại tín tâm, chàng trai khi gặp Phật, quỳ gối thành kính dâng cúng dường Đức Phật quả cam bằng cả tấm lòng chân tình sâu sắc, và nhờ oai thần, đại từ đại bi, đại trí huệ của Như Lai, và nhân duyên lành hội tụ đầy đủ, chàng trai liền thành tựu bố thí ba-la-mật cho đến trí tuệ ba-la-mật như đoạn kinh văn trích dẫn dưới đây:
“Ngày xưa có một người tuổi trẻ nghèo khổ, đi đến nước khác được một quả cam, nó vừa thơm vừa đẹp, ở đời ít có. Anh ta mến tiếc, không dám nếm thử. Nghĩ đến cha mẹ, muốn đem quả cam về dâng cúng, nên liền đi trở về thành Tỳ Da Ly (Tỳ Xá Ly).
Khi ấy Đức Phật vào thành cùng với chư Bồ Tát và các đệ tử lớn, đến nhà trưởng giả thọ trai. Thấy Đức Phật đi qua, người tuổi trẻ chưa về nhà, tay cầm quả cam trong ý muốn dâng cúng nhưng chưa thực hiện kịp. Vì từ nhỏ tới lớn chưa từng nghe nói về Phật, thấy dấu chân Đức Phật vừa đi qua in trên đất giống như hình bánh xe đang quay, rõ ràng các đường chỉ nhỏ cũng không thiếu sót. Lấy làm lạ, anh ta liền ngồi lên dấu chân nhìn xem không chán. Anh ta cảm nhận như gặp được điều may mắn, quên cả buồn vui. Anh suy nghĩ: “Dấu chân trên đất còn như thế, huống gì thân của vị ấy ở đời ít có. Ta ở đây đợi Ngài trở về, nên đem luôn phần của cha mẹ, chờ vị ấy trở lại sẽ đem quả cam dâng cúng.”
Khi Đức Phật chưa trở về, anh ta ngồi bên dấu chân, buồn suy nghĩ rơi nước mắt. Người đi đường thấy vậy hỏi:
- Vì sao anh cầm quả cam ngồi đây mà buồn bã vậy?
Anh ta đáp:
- Tôi ngồi đây với dấu chân của Bậc Tôn Quý, mong mỏi Ngài sẽ trở lại, muốn đem quả cam này tự dâng cúng, đợi thấy Tôn nhan mà chưa được như nguyện. Tự xét thân phận hèn mọn, ít ai quan tâm, nên cảm thấy buồn.
Người đi đường thấy lạ, đến hỏi thăm, xem coi rất đông, đều bàn tán với nhau cho anh ta là kẻ cuồng si. Vì sao biết được vị ấy có trở lại hay không mà ngồi chờ đợi?
Khi Đức Phật đã đến nhà vị trưởng giả an tọa, chúng Tăng rửa chân, theo thứ lớp ngồi vào xong, vị trưởng giả và tất cả thân quyến đem các món ăn dâng cúng đầy đủ. Khi thọ trai xong, Đức Phật chú nguyện cho trưởng giả và cả người nghèo ở xa đang chiêm ngưỡng dấu chân, cầm quả cam đợi dâng cúng Phật.
Khi Đức Phật và chúng Tăng đã thọ trai xong, vị trưởng giả suy nghĩ: “Đức Thế Tôn chú nguyện pháp thí không bình đẳng. Chỉ chú trọng người ở xa, việc cúng dường ở đây không xứng đáng sao?”
Đức Phật dạy Tôn Giả A-nan:
- Việc cúng dường của trưởng giả phước như thế nào?
Đức Phật dạy tiếp:
- Việc cúng dường của trưởng giả rất rộng rãi, nhưng vị ấy còn mong mỏi, nên dụng tâm còn so sánh quanh co, nhưng kết cuộc cũng được tốt đẹp, an lạc. Trái lại, bên ngoài ở xa có một thiếu niên tay cầm quả cam, một lòng không nghĩ gì khác, ngồi bên dấu chân hiền từ chờ đợi, suy nghĩ muốn dâng quả cam cúng dường, vận dụng lòng thành phát tâm rộng lớn. Do vậy, nên Ta ngồi ở đây, vì người ở xa mà chú nguyện.
Vị trưởng giả suy nghĩ: “Người kia muốn cúng quả cam không khác đồ ăn của ta. Đức Phật tán thán công đức của người kia là cao tột. Ta tuy giàu có, đồ cúng đầy đủ, nhưng ý chấp vào việc cúng ít nhiều nên Đức Phật dạy phước không bằng người kia, ta muốn theo hầu Đức Phật đến thăm người ấy.”
Khi ấy Đức Phật rời khỏi chỗ ngồi, đi đến nơi người ngồi chiêm ngưỡng dấu chân. Các Bồ Tát, đệ tử, trưởng giả, cư sĩ... Tất cả hợp lại theo thứ bậc tháp tùng theo Đức Phật. Người kia từ xa thấy Đức Phật đi đến, thân tướng tốt đẹp, hào quang sáng hơn cả mặt trăng, mặt trời, liền bước tới nghênh đón Đức Phật, rồi cúi đầu đảnh lễ. Nhân đó anh ta quỳ xuống, đem quả cam dâng cúng Đức Phật và liền khi đó phát tâm Vô Thượng bình đẳng độ thoát chúng sanh.
Đức Phật phóng ánh sáng chiếu khắp không cùng tận. Ba ngàn thế giới đều chấn động lớn. Mười phương chư Phật và chư vị Bồ Tát kịp thời đều hiện ra như hình hiện ở trong gương, xa gần đều thấy rõ. Đức Phật vì vị ấy thọ nhận quả cam rồi chuyển quả ấy cúng dường mười phương chư Phật, chỉ một quả cam ấy mà biến ra để cúng dường khắp không cùng tận.
Mười phương chư Phật và chư vị Bồ Tát thân mang ca sa, duỗi cánh tay vàng sáng chói, phóng ra ngàn muôn ức tia sáng, trong mỗi tia sáng kia tự nhiên đều có hoa sen châu báu nối tiếp giăng quanh tòa sư tử. Trên Bảo tòa có chư Phật và chư vị Bồ Tát đều cầm bát báu thọ nhận quả cam, cùng dùng quả cam ấy chuyển biến cúng dường... Đức Thích Ca cũng lại như vậy, ở thế giới này chiếu sáng mười phương, khắp trong hư không, chư Thiên, Quỷ Thần đều đầy đủ, tám hướng trên dưới cũng không có khoảng trống, đều hoan hỷ đến tán dương,
hỗ trợ, các Bồ Tát trong ba cõi đều được nhờ ân.
Khi ấy người cúng quả cam được pháp Vô Sinh Nhẫn. Đức Phật thọ ký cho vị ấy sau này sẽ được làm Phật, hiệu là Quả Tôn Vương Vô Thượng Chánh Giác. Quốc độ kia sẽ giống như cảnh giới Cực Lạc của Phật A-di-đà. Khi vị ấy được nghe Đức Phật thọ ký cõi nước riêng, tự nhiên thân tâm thanh tịnh, liền được quả vị Nhất Sanh Bổ Xứ. Trưởng Giả, Cư Sĩ, cả đến ngàn người, nương nhờ phước ấy mà phát đạo tâm và được vào địa vị Bất Thoái Chuyển.
Công đức của người nghèo kia được lợi ích rộng lớn đến như vậy.”
(Quyển thứ 16, thuộc Bộ Bản Duyên thứ 7, trang 386 đến trang 389 thuộc Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, phần kinh văn số 206. Tham khảo từ Đức PHẬT A-DI-ĐÀ trong Kinh Bản Duyên và các Kinh Điển khác. Hòa Thượng Thích Như Điển: https://thuvienhoasen.org/a34151/duc-phat-a-di-da-trong-kinh-ban-duyen-va-cac-kinh-dien-khac )
3. Đại Từ Đại Bi, Tâm Bồ Đề ly tướng cho đến Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất (Nhập Pháp Giới)
Từ ‘Đại Tín Tâm’, Pháp hữu trưởng dưỡng tâm Đại Từ Đại Bi, phát Bồ Đề Tâm, rõ biết Bồ Đề Tâm ly tướng, được tích tập từ bây giờ, trải qua vô lượng kiếp cho đến Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất, mà Bồ Tát Thiện Tài Đồng Tử nương nhờ oai thần, oai lực, trí huệ của Bồ Tát Di Lặc cùng với thiện căn của mình đi vào Lầu Gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo, nghe Bồ Tát Pháp, biết Bồ Tát đức, rõ Bồ Tát nguyện: chứng nhập pháp giới; chứng thấy sự sự vô ngại, như đoạn kinh văn, được trích từ Phẩm 39. Nhập Pháp Giới, Kinh Hoa Nghiêm, ở phần endnote[i], cuối bài viết để quý Pháp hữu tham khảo.
Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất là Tam Muội Giải Thoát Tự Tại của Bồ Tát Di Lặc, Đẳng Giác Bồ Tát. Thiện Tài Đồng Tử, nhờ thiện căn tu đức tu trí của mình, và nương nhờ oai lực của Bồ Tát Di Lặc mà được nhiếp trụ vào giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ Tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ Tát, thấy được cảnh giới trang nghiêm thù thắng, chứng thấy sự sự vô ngại.
Để được nhiếp trụ vào Tam Muội Tự Tại Giải Thoát (Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất), chỗ chứng đạt của chư Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Sứ, Đẳng Giác Bồ Tát, những hành giả phát Tâm Bồ Đề ngày nay phải tu đức, tu trí, được tích tập vô lượng kiếp, như ngài Thiện Tài Đồng Tử, kể từ khi phát Tâm Bồ Đề.
Như vậy, cần phải rõ biết năm điều cốt yếu, được hiển thị từ lời dạy của Đức Phật tại nơi đây (xem trích đoạn cuối bài viết), được Thế Tôn thuyết giảng nhất quán trong năm thời giáo pháp (Thời Hoa Nghiêm, Thời A-Hàm, Thời Phương Đẳng, Thời Bát Nhã, và Thời Pháp Hoa & Niết Bàn). Bài chia sẻ này chỉ cô đọng năm điều cốt yếu này (sẽ được viết và chia sẻ thành một tập sách khi hữu duyên) để quý Pháp hữu tham khảo và có thể được ứng dụng trong việc tu tập hàng ngày.
Điều cốt yếu thứ nhất: Trí rõ biết huyễn pháp (Hữu): trí huyễn, luôn tích tập lực trí huyễn
Điều cốt yếu thứ hai: Trí biết Tánh Không, Pháp Tánh, Phật Tánh, Như Lai Tạng, Quang Minh Tạng, Đệ Nhất Nghĩa Đế vv
Điều Cốt yếu thứ ba: Trí Trung Đạo: Trí rõ biết mối tương quan mật thiết giữa huyễn pháp (Hữu) và tánh không hay nền tảng tánh không (Vô), hay giữa tục đế và chân đế như hai mặt của một đồng tiền không thể tách rời nhau, vì thế nên lìa chấp trước, không chấp hữu chấp vô; tức là VÔ TRỤ
Điều cốt lõi thứ 4: Phát Tâm Bồ Đề, tu tất cả thiện pháp (bắt đầu từ Đại Tín Tâm cho đến Đại Từ Đại Bi): nhờ 3 Trí bát nhã nên rõ biết Tâm Bồ Đề ly tướng
Điều cốt yêu thứ 5: Luôn nương theo oai thần, oai lực, đạo huệ, công đức bất khả tư nghì của chư Phật, chư Đại Bồ Tát để tu tâm, dưỡng tánh, tu thiện pháp, tích tập công đức cho đến thời chín muồi (thời gian rất lâu), như Ngài Thiện Tài Đồng Tử với thiện căn mình, được sự gia trì bởi Bồ Tát Di Lạc, đi vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Phật, nhập vào pháp giới thấy sự sự vô ngại… cho đến ngày viên mãn lục ba la mật hoặc thập ba la mật….
Tri Ân và Hồi Hướng
Nhờ vào Công đức bất khả từ nghì, Đại Từ Đại Bi Đại Trí Huệ của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật; và nhờ duyên lành được chiêm bái xá lợi Đức Phật trong niềm kính quý, Tâm Tịnh, con hội đủ duyên lành để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của con đối với ân đức bao la như hư không của Ngài bằng những bài viết tán thán Ngài (dẫu vụng về); bằng những lời nói hiền thiện, những hành động thiện, những ý nghĩ thiện cho đến những bài chia sẻ chơn chánh pháp vi diệu, mà nhờ oai lực, đạo huệ của chư Phật, chư Bồ Tát, mới được hiển bày đến với những người hữu duyên, vì trong từ đáy lòng, con luôn luôn khắc cốt ghi tâm lời dạy của Ngài, khi chia sẻ chánh pháp, được ghi lại trong Tam Tụ Luật Nghi Kinh, Đại Bảo Tích Kinh: “Hàng đệ tử của Như Lai ban tuyên kinh pháp của Như Lai, phải dựa vào thần lực, đạo huệ của Như Lai.”
Với công đức chơn thiện phát sinh từ thành tâm chia sẻ chơn chánh pháp này, Tâm Tịnh, con thành tâm xin nguyện cầu cho tất cả mọi người sống trên Cõi Địa Cầu sẽ thoát khỏi thời kỳ tà ác, chiến tranh, và thoát khỏi mọi sự bất an, não nhiệt, sợ hãi, căng thẳng, hận thù, oán ghét; và đồng thời nguyện cầu mọi khổ đau, cái chết phi thời của mọi người đều được hoàn toàn tịnh hóa.
Vói công đức chơn chánh này, đặc biệt, với lòng đầy biết ơn từ trong tận sâu thẳm tâm hồn, con xin hân hoan nương nhờ vào lòng tư bi vô biên, vô chướng ngại của chư Phật, chư Bồ Tát, thành tâm nguyện cầu an lành và hạnh phúc cho Cha Mẹ, người thân và hết thảy muôn loài chúng sanh trong mọi thế giới và cùng khắp hư không vũ trụ bao la này. Nương nhờ vào công đức chơn thật hơn cả biển cả bao la, bất khả tư nghì của chư Phật, chư Bồ Tát, con xin thành tâm ngưỡng nguyện mọi chúng sanh sớm giác ngộ và chứng đạt Vô Thượng Bồ Đề, Chánh Trí Giải Thoát, thoát mọi ràng buộc, khổ đau.
Nguyện đem công đức này
Hướng về chúng sanh khắp pháp giới
Đồng sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Toowoomba, Queensland, Australia
19/06/2025
[i] “Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
Lúc ấy Bồ tát Di Lặc đến trước lầu gác khảy móng tay ra tiếng, cửa liền mở, bảo Thiện Tài đi vào. Thiện Tài hoan hỷ đi vào lầu gác, cửa liền đóng lại”.
“Thiện Tài thấy trong lầu gác rộng vô lượng đồng hư không. Vô số báu làm đất, vô số cung điện, vô số cửa lớn, vô số cửa sổ, vô số thềm bậc, vô số lan can, vô số đường xá, tất cả đều bằng bảy báu. Vô số tràng, vô số phan, vô số lọng bao vòng khắp nơi, vô số chuỗi báu, vô số chuỗi chân châu, vô số chuỗi xích chân châu, vô số chuỗi sư tử châu, thòng rũ khắp nơi. Vô số bán nguyệt, vô số dải lụa, vô số lưới báu dùng để trang sức. Vô số chuông báu gió động thành tiếng, rải vô số hoa trời, vô số dải hoa trời báu, vô số lò hương các báu, treo vô số gương báu…
Lại thấy trong đó có vô lượng trăm ngàn lầu gác đẹp, đều nghiêm sức như trên. Mỗi lầu gác đều rộng rãi tráng lệ, đồng như hư không chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau.
Thiện Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy.
Bấy giờ đồng tử Thiện Tài thấy lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng có mọi thứ cảnh giới tự tại chẳng thể nghĩ bàn như vậy, sanh rất hoan hỷ, hớn hở vô lượng, thân tâm nhu nhuyến, lìa tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả lầm, chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, nhập vào cửa giải thoát vô ngại, vận dụng tâm vô ngại cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp”.
Sau khi Thiện Tài Đồng Tử dậy từ tam muội giải thoát vô ngại thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm tự tại trong lầu gác của Bồ Tát Di Lặc, Ngài nói:
“Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát, thấy được cung điện trang nghiêm do thần lực Bồ tát gia trì, do trợ đạo lưu xuất, do nguyện, trí hiển hiện. Ngươi thấy Bồ tát hạnh, nghe Bồ tát pháp, biết Bồ tát đức, rõ Bồ tát nguyện.
Thiện Tài thưa: Đúng vậy, bạch đại thánh. Đây là lực oai thần của thiện tri thức gia bị khiến cho ghi nhớ. Bạch đại thánh, môn giải thoát này tên là gì?
Bồ tát Di Lặc nói: Thiện nam tử! Môn giải thoát này tên Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất. Thiện nam tử! Trong môn giải thoát này có chẳng thể nói chẳng thể nói hết môn giải thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ tát nhất sanh bổ xứ”.
“Thiện Tài hỏi: Sự trang nghiêm này đi về đâu?
Bồ tát Di Lặc đáp: Đi về chỗ từ đó nó đến.
Thiện Tài hỏi: Từ chỗ nào đến?
Bồ tát Di Lặc nói: Từ trong thần lực trí huệ của Bồ tát mà đến, y thần lực trí huệ của Bồ tát mà an trụ; không có chỗ đi cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa lìa tất cả.
Thiện nam tử! Như Long vương làm mưa xuống: chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập mà chẳng phải là chẳng thấy, chỉ do niệm lực của tâm Long vương mà mưa tuôn xuống khắp thiên hạ. Cảnh giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn.
Thiện nam tử! Những sự trang nghiêm kia cũng giống như vậy, chẳng trụ ở trong cũng chẳng trụ ở ngoài mà chẳng phải chẳng thấy, chỉ do nơi lực oai thần của Bồ tát và lực thiện căn của ngươi mà thấy sự như vậy.
Này thiện nam tử! Như nhà huyễn thuật làm những sự huyễn: không từ đâu đến, không đi đến đâu. Dù không đến không đi mà do lực huyễn nên thấy được rõ ràng.
Những sự trang nghiêm này cũng giống như vậy, không từ đâu đến cũng không đi đến đâu. Dù không đến không đi nhưng do Bồ tát học tập lực trí huyễn chẳng thể nghĩ bàn và do lực đại nguyện từ xưa mà hiển hiện như vậy”.
Đồng tử Thiện Tài thưa: Đại thánh từ xứ nào đến? Bồ tát Di Lặc nói: Chư Bồ tát không đến không đi, như vậy mà đến. Không đi không trụ (dừng ở), như vậy mà đến. Không xứ sở, không bám chấp, không sanh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, không đoạn, không thường, như vậy mà đến.
Này thiện nam tử! Bồ tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng sanh. Từ nơi đại từ mà đến vì muốn cứu hộ các chúng sanh. Từ nơi tịnh giới mà đến vì tùy theo chỗ thích mà thọ sanh. Từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa gia trì. Từ nơi thần thông mà đến vì tùy thích mà hiện ở tất cả xứ. Từ nơi không lay động mà đến, vì thường chẳng rời lìa tất cả Phật. Từ nơi không lấy bỏ mà đến vì thân tâm chẳng bị bắt buộc phải qua lại. Từ nơi phương tiện trí huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả chúng sanh. Từ nơi biến hóa thị hiện mà đến vì giống như bóng hình mà hóa hiện”.
(online: https://daithua.com/sutra/kinh-hoa-nghiem-pham-39-nhap-phap-gioi/